NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TÁC DỤNG DƯỢC LÝ CỦA LÁ SÂM VIỆT NAM
Trần Mỹ Tiên, Nguyễn
Thị Thu Hương
Trung tâm Sâm &
Dược liệu Tp.Hồ Chí Minh, Viện Dược liệu
(Nhận bài ngày 5 tháng
3 năm 2004)
Summary
Study on
pharmacological actions of Vietnamese ginseng leaves
Vietnamese ginseng
leaves had the effect on the central nervous system, shorteningpent
barbital-induced sleeping time in small doses and lengthening
pentobarbital - induced sleeping time in large doses. Vietnamese
ginseng leaves extract (600,1200mg/kg p.o) and its total saponin (200mg/kg p.o)
significantly recovered the stress-induced decrease in pentobarbital sleep
to the normal level. In the other hand,Vietnamese ginseng leaves extract
and its total saponin have the invigoration andantioxidant effects.
Key words: Vietnamese
ginseng, Pentobarbital sleep,.Invigoration effect, antioxidant
effect,antistress effect.
1. Đặt vấn đề
Sâm Việt Nam (Panax
vietnamensis Ha et Grushv.) thuộc họ Nhân Sâm (Araliaceae), là
một loài tiêu biểu và quý của Việt Nam với bộ phận dùng chính là rễ củ, đã
được nghiên cứu từ năm 1978 về thực vật, sinh thái, thành phần hóa học và
tác dụng dược lý.Tất cả các bộ phận của cây đều được nghiên cứu nhằm
tận dụng nguồn nguyên liệu quý hiếm này [1].Vào năm 1998 - 2001,
trong chương trình hợp tác với Trường Đại học Hiroshima - Nhật Bản, việc
nghiên cứu thành phần hoá học của lá Sâm Việt Nam đã được thực hiện
[2]. Đó là tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo về dược lý cơ bản.
Bên cạnh việc nghiên cứu một số tác dụng dược lý điển hình của họ Nhân
sâm, đề tài còn định hướng vào tác dụng của lá Sâm Việt Nam trên một số
bệnh lý phổ biến của thời đại công nghiệp và đô thị hoá ngày nay như
stress, lão hoá …Công trình này được thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu một số
tác dụng dược lý cơ bản của lá Sâm Việt Nam dưới dạng cao chiết đã được
tiêu chuẩn hóa như:
+ Tác dụng trên hệ
thần kinh trung ương
+ Tác dụng chống
stress.
+ Tác dụng tăng lực.
+ Tác dụng chống oxy
hóa
Từ đo, tìm ra liều có
tác dụng, xác định hoạt chất có tác dụng dược lý của lá Sâm Việt Nam.
2. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu nghiên cứu:
Lá cây Sâm Việt Nam ở
cây trồng được 5 năm, được tiến hành chiết xuất theo phương pháp ngấm kiệt với
cồn 45o cho ra
dạng cao đặc (cao lá).
Thử nghiệm còn được thực hiện trên saponin toàn phần của lá Sâm Việt Nam,
Notoginsenosid-Fc,
một saponin có hàm
lượng cao. Dùng cao rễ củ Sâm Việt Nam (cao rễ) làm đối chiếu.
2.2. Súc vật nghiên cứu:
Chuột nhắt trắng khoẻ
mạnh, giống Swiss albino trọng lượng: 20 ± 2 gam/con do
Viện Pasteur - Thành Phố Hồ Chí Minh cung cấp và được để ổn định ít nhất một
tuần trước khi thử nghiệm.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Thử nghiệm tác dụng trên hệ thần kinh trung ương [3]
Thử nghiệm này nhằm
chứng minh tác dụng kích thích hay ức chế hệ thần kinh trung ương của nguyên
liệu thử, biểu hiện bằng rút ngắn hay kéo dài thời gian ngủ do barbital gây ra.
Súc vật thử nghiệm là
chuột nhắt trắng, trọng lượng 20 ± 2 g, được chia làm 2 lô thử nghiệm:
- Lô đối chứng: cho uống
nước cất.
- Lô thử : cho uống
thuốc thử nghiệm.
Thuốc được uống trước 1 giờ, hoặc tiêm phúc mô trước 30 phút.
Sau đó, tiêm phúc mô pentobarbital với liều 50 mg/kg. Thời gian ngủ của chuột
được ghi nhận từ lúc mất phản xạ thăng bằng đến khi phục hồi lại phản xạ này.
3.2. Thực nghiệm stress cô lập và ảnh hưởng của stress lên giấc
ngủ gây bởi barbital [4]
Súc vật được chia thành 2 nhóm :
- Nhóm bình thường : 8 -10 chuột được nuôi trong một nhóm.
- Nhóm stress : từng con được nuôi cô lập trong thời gian 4 tuần.
Cho súc vật uống nước
hoặc nguyên liệu thử 1 giờ trước khi tiêm phúc mô barbital (pentobarbital liều
50 mg/kg). Thời gian ngủ của barbital được ghi nhận từ lúc mất phản xạ cho đến
khi hồi phục lại phản xạ này.
Tác dụng antistress
được đánh giá khi thuốc thử nghiệm hồi phục lại giấc ngủ barbital bị rút ngắn
bởi stress về lại mức độ bình thường.
3.3. Thử nghiệm tác
dụng tăng lực [3]
Dùng nghiệm pháp chuột
bơi kiệt sức của Brekhman.
Ghi nhận thời gian bơi
lần thứ nhất và lần thứ hai ở các lô thử và so sánh thống kê với lô đối chứng.
Tác dụng tăng lực được đánh giá khi % thời gian bơi lần thứ hai / lần thứ nhất
của lô thử lớn hơn % thời gian bơi lần thứ hai / lần thứ nhất của lô đối chứng.
3.4.Thử nghiệm tác dụng chống oxy hóa [5]
Tách não chuột và
nghiền đồng thể trong dung dịch đệm phosphat (pH=7,4) theo tỷ lệ 1:10 ở nhiệt
độ 0-5oC. Lấy 1ml dịch đồng thể, thêm vào 0,2ml các nồng độ mẫu thử
+ 0,8ml đệm phosphat và ủ ở 37oC trong 15 phút (tự oxy hóa) hoặc ở
37oC trong 5 phút với hệ Fenton (FeSO4 0,1mM H2O2 15mM
theo tỷ lệ 1:1). Kết thúc phản ứng bằng 1ml acid tricloacetic 10%, ly tâm lấy
dịch trong cho phản ứng với 1ml acid thiobarbituric 0,8% ở 100oC
trong 15 phút và đo màu ở l = 532 nm.
v Tính toán kết quả
- Hàm lượng MDA được
tính theo công thức:
X =(ODthử / ODchuẩn) x
nồng độ MDA chuẩn (nM/ml)
- Hoạt tính chống oxy
hóa (HTCO) được tính theo công thức:
HTCO(%) = [(CMDA Chứng
– CMDA Thử)/ CMDA Chứngx 100]
OD: mật độ quang
C: nồng độ
4. Đánh giá kết quả
Các số liệu được tính
trung bình X ± SEM (Standard Error of the Mean : sai số
chuẩn của giá trị trung bình) và được xử lý thống kê dựa vào phép kiểm Student
và Anova với độ tin cậy 95%.
III. Kết quả và bàn luận
3.1. Thử nghiệm trên hệ thần kinh trung ương
- Ở các liều thấp 60
mg/kg và 120 mg/kg cao lá Sâm Việt Nam có tác động rút ngắn thời gian ngủ
của pentobarbital ở súc vật thí nghiệm, đạt ý nghĩa thống kê với độ tin cậy
95%.
- Thử nghiệm được thực
hiện với những liều cao dần và ở liều cao là 1800 mg/kg, cao lá Sâm Việt Nam
lại thể hiện tác dụng ức chế thần kinh trung ương, kéo dài thời gian ngủ của
súc vật gây bởi pentobarbital, còn ở liều 600 mg/kg và 1200 mg/kg thời gian ngủ
ở súc vật thử nghiệm không khác biệt với lô đối chứng (bảng 1).
- Rễ củ Sâm Việt Nam có tác
dụng ức chế hệ thần kinh trung ương ở liều 2000 mg/kg và kích thích hệ thần
kinh trung ương ở liều 10-100 mg/kg. Điều đó cho thấy có sự tương đồng trong
tác dụng trên hệ thần kinh trung ương như ức chế thần kinh trung ương ở liều
cao và kích thích thần kinh trung ương ở liều thấp.
Bảng 1: Tác động của cao
lá Sâm Việt Nam lên thời gian ngủ gây bởi pentobarbital
Lô thử nghiệm
|
Liều (mg/kg)
|
Số thử nghiệm
|
Thời gian ngủ (phút)
|
Đối chứng
|
--
|
10
|
79,20 ± 4,65
|
Thử 1
|
60
|
10
|
58,70 ± 4,61*
|
Thử 2
|
120
|
10
|
67,60 ± 3,92*
|
Thử 3
|
600
|
10
|
73,40 ± 3,90
|
Thử 4
|
1200
|
10
|
83,90 ± 3,26
|
Thử 5
|
1800
|
10
|
120,80 ± 4,02*
|
* P< 0,05
3.2. Thử nghiệm tác dụng trên stress cô lập
- Tương tự như cao rễ
trên stress cô lập, cao lá Sâm Việt Nam liều 600, 1200 mg/kg đều thể hiện tác
dụng phục hồi thời gian ngủ bị rút ngắn do stress, đưa trở về trạng thái bình
thường. Trong khi đó, hợp chất notoginsenosid-Fc lại không thể hiện tác động
này; điều đó chứng tỏ notoginsenosid-Fc không phải là hợp chất quyết định tác
dụng.
- Ở liều 200 mg/kg, tác
động chống stress của saponin toàn phần lá Sâm Việt Nam thể hiện rất rõ, đạt ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95%. Như vậy, trong thành phần saponin của lá Sâm
Việt Nam có hoạt chất chống stress.
- Với Sâm Việt
Nam, cả rễ và lá, liều có tác động chống stress thì
không ảnh hưởng lên thời
gian ngủ ở nhóm không bị stress. Điều này cho thấy tính thích
nghi của Sâm Việt Nam trong tác động chống stress hơn hẳn những thuốc tổng hợp
có tác dụng tương đương (Diazepam).
- Trong cao rễ Sâm Việt Nam,
majonosid-R2 đã được chứng minh là hoạt chất có tác dụng chống stress [4]. Đó
là một saponin có cấu trúc vòng ocotillol . Điểm lại thành phần hóa học
của lá Sâm Việt Nam, trong nhóm saponin có cấu trúc vòng ocotillol cũng có
saponin chiếm tỷ lệ khá cao mà lại là một vina-ginsenosid. Điều này cho ta suy
nghĩ về hướng nghiên cứu tiếp theo trên thực nghiệm chống stress để tìm
ra hoạt chất hay nhóm hoạt chất chống stress trong lá Sâm Việt Nam
Bảng 2: Tác dụng của các
nguyên liệu thử trên thời gian ngủ của pentobarbital trong mô hình stress cô
lập.
Lô thử nghiệm
|
Liều thử nghiệm
(mg/kg)
|
Số lần thử nghiệm
|
Thời gian ngủ (phút)
|
Nhóm bình thường
|
Nhóm stress
|
Đối chứng
Cao lá
Cao rễ củ- thân rễ
|
--
600
1200
200
|
9
9
9
9
|
65,22 ± 4,90
76,44 ± 6,16
76,11 ± 5,02
70,56 ± 8,95
|
49,10 ± 8,23 #
67,33 ± 4,21 *
69,00 ± 6,75 *
73,56 ± 4,75 *
|
Đối chứng Saponin
|
--
100
200
|
10
10
10
|
70,40 ± 3,88
71,50 ± 3,10
73,20 ± 4,22
|
53,20 ± 3,88 #
54,10 ± 3,68
70,50 ± 5,63*
|
Đối chứng N-Fc
Diazepam
|
--
5
10
20
0,05
0,50
|
10
10
10
10
10
10
|
71,00 ± 3,97
70,50 ± 2,62
69,30 ± 3,75
72,40 ± 5,31
72,40 ± 4,29
83,80 ± 3,37 *
|
52,40 ± 3,78#
47,50 ± 2,90
47,20 ± 3,60
47,00 ± 3,97
64,10 ± 4,27
72,70 ± 3,13 *
|
# P < 0,05 : so sánh giữa nhóm stress
và nhóm bình thừơng
* P < 0,05 : so sánh giữa nhóm đối
chứng và nhóm dùng thuốc
3.3. Thử nghiệm tác dụng tăng lực:
Ở những liều 600,
1200, 1800 mg/kg, thời gian bơi lần thứ hai ở các lô thử đều không khác biệt
đạt ý nghĩa thống kê so với thời gian bơi lần thứ nhất. Tuy nhiên, sau khi dùng
cao lá Sâm Việt Nam, tỷ lệ % thời gian bơi lần thứ hai / lần thứ nhất cao hơn
so với lô đối chứng.
So với rễ
củ Sâm Việt Nam, tác dụng tăng
lực thể hiện ở những liều nhỏ (5-100 mg/kg). Ở đây, liều thể
hiện tác dụng ở lá và rễ củ không tương đương nhau và liều ở lá khá cao so với
rễ củ. Điều này có thể là do sự phối hợp đưa đến tác dụng của các thành phần có
trong cao lá khác với thành phần hoạt chất trong cao rễ củ hay cũng có thể là
do cơ chế tác động khác nhau.
Bảng 3: Thời gian bơi
lần thứ nhất và lần thứ hai của các lô thử nghiệm.
Lô thử nghiệm
|
Liều thử nghiệm
(g/kg)
|
Số lần thử nghiệm
|
Thời gian bơi (phút)
|
% thời gian bơi
lần thứ hai / lần thứ nhất
|
Lần thứ nhất
|
Lần thứ hai
|
Đối chứng
|
|
10
|
52,40 ± 5,18
|
33,30 ± 2,37*
|
63,55
|
Thử 1
|
600
|
10
|
48,70 ± 3,80
|
38,70 ± 4,52
|
79,47
|
Thử 2
|
1200
|
10
|
47,40 ± 5,16
|
37,00 ± 5,32
|
78,06
|
Thử 3
|
1800
|
10
|
52,80 ± 3,77
|
45,70 ± 3,78
|
86,55
|
* P< 0,05
3.4. Khảo sát tác dụng chống oxy hóa của lá Sâm Việt Nam
- Kết quả ở bảng 4 và bảng 5 cho thấy saponin và cao lá Sâm Việt
Nam (nồng độ 5-100 mcg/ml) ức chế sự tạo thành MDA, một sản phẩm sinh ra trong
quá trình peroxy hoá lipid trong mô não. Tác động này tương tự như Trolox, một
đồng phân của vitamin E (nồng độ 100 mcg/ml) là một chất chống oxy hóa điển
hình.
- Hợp chất notoginsenosid-Fc ở nồng độ 25-100 mcg/ml lại không thể
hiện tác động ức chế sự hình thành MDA ở cả 2 mô hình thử nghiệm : tự
oxy hóa và có hệ Fenton xúc tác, chứng tỏ notoginsenosid-Fc
không phải là hoạt chất quyết định tác dụng này.
- Với nghiên cứu trứớc đây
[6], saponin của rễ củ Sâm Việt Nam có tác dụng ức chế sự hình thành MDA ở nồng
độ 50-500 mcg/ml, chứng tỏ saponin của lá Sâm Việt Nam có tác dụng ở nồng độ
thấp hơn. Cần khảo sát tiếp theo trên thực nghiệm in vivo dưới
ảnh hưởng của stress tâm lý và tìm ra hoạt chất chống oxy hóa của
lá Sâm Việt Nam để mở ra những công dụng tiếp theo của nó trong tương lai.
OD: mật độ quang
C: nồng độ
4. Đánh giá kết quả
Các số liệu được tính
trung bình X ± SEM (Standard Error of the Mean : sai số
chuẩn của giá trị trung bình) và được xử lý thống kê dựa vào phép kiểm Student
và Anova với độ tin cậy 95%.
IV. Kết luận
1. Cũng như tác dụng
của rễ, tác dụng của lá Sâm Việt Nam trên hệ thần kinh trung ương phụ thuộc vào
liều thử nghiệm, kích thích thần kinh trung ương ở liều thấp và ức chế thần
kinh trung ương ở liều cao. Đó là một trong những tác dụng cơ bản và điển hình
của một số cây thuộc họ Nhân sâm.
2. Cao lá Sâm Việt Nam
ở các liều thử nghiệm 600, 1200 mg/kg, saponin toàn phần ở liều 200 mg/kg
có tác dụng phục hồi thời gian ngủ bị rút ngắn bởi stress đưa trở về
trạng thái bình thường. Ở liều này, nó không gây ảnh hưởng trên thời gian
ngủ của pentobarbital ở chuột bình thường. Hợp chất notoginsenosid-Fc ở các
liều thử nghiệm lại không thể hiện tác động; như vậy notoginsenosid-Fc không
phải là hợp chất quyết định tác dụng này.
3. Cao lá Sâm Việt Nam
ở các liều thử nghiệm 600, 1200, 1800 mg/kg có tác dụng chống nhược sức, hồi
phục thể lực cho các hoạt động quá sức, mệt mỏi.
4. Ở cả 2 trường hợp tự oxy
hóa và có hệ xúc tác Fenton, cao lá Sâm Việt Nam và saponin toàn phần lá
Sâm Việt Nam đều thể hiện tác động chống oxy hoá, ức chế sự hình thành MDA và
saponin toàn phần lá Sâm Việt Nam có tác dụng chống oxy hoá mạnh hơn.